Menu

Những kháng sinh mới nhất

Dịch: DS. Nguyễn Thu Hiền
Hiệu đính: DS. Nguyễn Thị Thu Thủy

Kháng sinh là một nhóm thuốc không thể thiếu trong điều trị. Song song với đó, chỉ riêng tại Hoa Kì, một thực trạng đáng báo động hiện nay đó là các vi khuẩn đề kháng tiếp tục gây nhiễm trùng cho 2 triệu bệnh nhân mỗi năm và dẫn tới 23.000 ca tử vong mỗi năm.

Hiện nay, những tiến bộ trong kháng sinh đã mang lại cho bác sĩ lâm sàng những lựa chọn thêm nữa để quản lý nhiễm khuẩn kể cả các chủng vi khuẩn đã kháng trước đó. Những liệu pháp mới có thể giúp làm giảm lây lan vi khuẩn kháng thuốc. Đó là bởi vì sẽ giảm thiểu được việc phải dùng các kháng sinh không hiệu quả. Bên cạnh đó, các liệu pháp mới còn giúp giảm các chi phí các dịch vụ chăm sóc sức khỏe liên quan.

Luật GAIN đã khuyến khích các công ty trong nghiên cứu và phát triển liệu pháp kháng sinh mới đã mang lại nhiều tiến bộ mới trong trị liệu kháng sinh. Mỗi trị liệu mới đều mang lại những lợi ích nhất định trong quản lý nhiễm trùng nhưng song song với đó cũng đi kèm một số rào cản điều trị.

Các sản phẩm đường tĩnh mạch

Dalbavancin (Dalvance)

Vào 23/05/2014, FDA đã phê duyệt dalbavancin với chỉ định điều trị nhiễm khuẩn cấu trúc da và nhiễm khuẩn da do vi khuẩn cấp (Acute bacterial skin and skin structure infections-SSTIs) gây ra bởi Staphylococcus aureus nhạy cảm với methicillin (MSSA), Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA), và Streptococcus pyogenes.

Ưu điểm nổi bật của dalbavacin đó là chế độ liều có thể chỉ một lần mỗi tuần do thời gian bán thải của thuốc lên tới 170 – 210 giờ. Với SSTIs, chế độ liều khuyến cáo là: khởi đầu liều 1500 mg hoặc 2 liều 1000 mg theo sau đó là liều 500mg 1 tuần. Rõ ràng, chế độ liều của dalbavacin ưu điểm hơn chế độ dùng hàng ngày của vancomycin.

Với bệnh nhân điều trị nội trú dalbavacin chỉ cần được dùng một liều trước khi xuất viện. Vì thế, sẽ không cần phải kèm theo các thiết bị và dịch vụ y tế đi kèm như các thuốc khác nữa. Điều này có thể có lợi cho các bệnh nhân bảo hiểm chi trả giới hạn, thiếu tuân thủ điều trị hoặc không thể dùng vancomycin tại nhà do các nguyên nhân khác.

Dalbavancin truyền tĩnh mạch trong 30 phút, vì thế có thể sẽ bất tiện cho bệnh nhân ngoại trú nếu như các y tá/điều dưỡng tại nhà không dùng thuốc cho bệnh nhân ngay tại nhà được mà bệnh nhân sẽ phải đến bệnh viện/phòng khám. Thêm vào đó, dalbavacin có thể gây ra tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như nôn, đau đầu, và tiêu chảy, và tăng men gan. Tuy nhiên, để hạn chế tối thiểu nguy cơ gây tác dụng phụ trên da như hội chứng người đỏ (“red man”) giống như khi sử dụng vancomycin, chế độ truyền nên duy trì ít nhất trong 30 phút.

Thử nghiệm lâm sàng chỉ ra hiệu quả điều trị SSTI cấp tính của dalbavacin tương tự vancomycin. Với tụ cầu tan huyết nhóm B, trị số MIC90 (nồng độ ức chế tổi thiểu để diệt 90% vi khuẩn) của dalbavacin là 0,047 thấp hơn so với 0,75 của vancomycin.

Tỉ lệ nhạy cảm của MRSA với dalbavacin là 100%, tốt hơn vancomycin (99.8%) và các kháng sinh uống như clindamycin (55.2%), tetracyclin (91.8%), và linezolid (99.7%).4 Mặc dù các thuốc khác có thể sẽ rẻ hơn nhưng lại có nhược điểm là chế độ dùng hàng ngày, dễ khiến tới kém tuân thủ điều trị.

Nhìn chung, dalbavacin là một lựa chọn ưu việt hơn để điều trị SSTIs ở bệnh nhân nhiễm khuẩn G(+).

Oritavacin (Orbactiv)

Oritavacin được cấp phép vào 6/8/2014 với chỉ định điều trị SSTIs cấp do MSSA, MRSA, và một số chủng Streptococcus. Chế độ liều của oritavacin đó là truyền liều đơn 1200mg trong 3 giờ.

Không giống như dalbavacin, oritavancin cấp phép cho chỉ định điều trị Enterococcus faecalis – một chủng gây SSTI ngày càng phổ biến và điều trị một số chủng đề kháng vancomycin. Hiệu quả điều trị SSTI của oritavancin tương tự với vancomycin, bao gồm nhiễm khuẩn gây bởi S.aureus (81.8% với 81.9%), MRSA (22.1% với 20.0%), viêm mô tế bào (51.2% với 48.6%), viêm mô tế bào có nhiễm MRSA (19.2% với 23%), áp xe (29.5% với 29.5%), và áp xe có nhiễm MRSA (58.7% với 57%). Không giống như vancomycin và dalbavancin, oritavancin còn có hiệu quả với các cầu khuẩn ruột kháng vancomycin qua trung gian VanA và VanB. Trị số MIC90 với VanA là 1 và với VanB là 0,06.

Tình trạng tăng enzyme gan liên quan tới dalbavancin và hội chứng người đỏ (red man) liên quan tới vancomycin không còn là lo ngại khi sử dụng oritavancin nữa. Tuy nhiên, các tác dụng phụ có thể gây ra bao gồm đau đầu, tiêu chảy, nôn, buồn nôn, áp xe da và mô mềm tại các vị trí như cẳng tay và cẳng chân. Thêm nữa, oritavancin nên được tránh dùng khi nghi ngờ có viêm tủy xương.

Oritavancin ức chế enzym CYP2C9 và có thể tăng nồng độ wafarin trong huyết tương tới 30%. Tối thiểu nhất là nên theo dõi INR trong 24 giờ sau khi sử dụng oritavancin. Tuy nhiên, do thời gian bán thải của thuốc tới 245 giờ đồng thời ảnh hưởng của oritavancin tới INR thể hiện rõ ràng trong 24 giờ đầu nên việc theo dõi INR trong 10 ngày có vẻ không hợp lý.

Thú vị là oritavancin không hề tác động trực tiếp lên quá trình đông máu mà thay vào đó, thuốc lại liên kết với phospholipid vì vậy làm kéo dài thời gian thromboplastin hoạt hóa (aPTT) trong một khoảng thời gian có thể dài tới 120 giờ sau sử dụng. Với một số thuốc khác cần yêu cầu theo dõi aPTT khi sử dụng như heparin, nên tránh dùng trong 5 ngày dùng oritavancin.

Ceftolozane/tazobactam (Zerbaxa)

Đây là cephalosporin thế hệ 5 được cấp phép vào 19/12/2014 điều trị nhiễm khuẩn ổ bụng biến chứng (complicated intra-abdominal infections – NTOBBC) (phối hợp với metronidazol) và nhiễm khuẩn đường niệu biến chứng – NTNBC) ở người trưởng thành. Không sẵn có trên thị trường các chế phẩm ceftozolan đơn độc mà không có kết hợp với chất ức chế beta lactamase. Chất ức chế beta-lactamase giúp bao phủ một số chủng vi khuẩn kháng thuốc.

Liều cho nhiễm khuẩn ổ bụng biến chứng là 1.5g (ceftolozane 1g/tazobactam 0.5g), đường tĩnh mạch, chế độ liều mỗi 8 giờ phối hợp với metronidazol 500mg, đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ trong điều trị trong 4 – 14 ngày. Liều tương tự nhưng dùng ngắn hơn ( 7 ngày) được khuyến cáo điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu biến chứng, tuy nhiên không cần phối hợp metronidazol.

Ceftolozane/tazobactam có hiệu quả tương tự với meropenem trong điều trị NTOBBC, với tỉ lệ khỏi bệnh lâm sàng là 91% khi phối hợp cùng metronidazol, so với 94% khi dùng meropenem. Ceftolozane/tazobactam điều trị bao phủ được cả nhiễm khuẩn NTNBC nặng do Enterobacteriaceae với nồng độ ức chế tối thiểu MIC của vi khuẩn dưới 2 mg/L. Với các vi khuẩn kháng levofloxacin, tỉ lệ khỏi bệnh khi dùng ceftolozane/tazobactam cao hơn so với levofloxacin với cả quần thể vi sinh vật biến đổi (microbiological-modified population) (60% so với 39.3%) và quần thể vi sinh vật đánh giá (microbiological-evaluable population) (64% với 43.4%).

Dù sử dụng ceftolozan/tazobactam có các lợi ích trên nhưng ti lệ khỏi bệnh tổng thể có vẻ chưa ở mức tối ưu. Vì thế, cần xem xét cân nhắc đến mức độ nặng của nhiễm khuẩn khi lựa chọn ceftolozan/tazobactam để điều trị theo kinh nghiệm ở các khu vực tỉ lệ kháng fluoroquinolon cao. Ceftolozane/tazobactam không có hiệu quả như vậy trên các bệnh nhân suy giảm chức năng thận (CrCl 30 – 50ml/phút). Cũng có thể do liều chưa đủ nên hiệu quả chưa đạt tối ưu. Tuy nhiên, hiệu quả thực sự của thuốc ở bệnh nhân có trị số CrCl nền trước khi điều trị <50ml/phút còn chưa rõ ràng. Cho tới khi có thêm dữ liệu và bằng chứng liên quan đến vấn đề này, không nên sử dụng ceftolozane/tazobactam ở các bệnh nhân này.

Thoạt đầu có thể thấy ceftolozane/tazobactam sẽ mang lại ít lợi ích trong các chương trình quản lý sử dụng kháng sinh – vì các chương trình này có mục đích giảm phơi nhiễm của vi khuẩn với các kháng sinh phổ rộng. Tuy nhiên, đây là một lựa chọn thay thế cho fluoroquinolon nếu phát sinh các vấn đề liên quan đến kéo dài khoảng QT. Các tác dụng phụ quan sát được trong thử nghiệm lâm sàng tương tự như các cephalosporin khác.

Ceftazidim/avibactam (Avycaz)

FDA cấp phép ceftazidim/avibactam vào 25/2/2015. Đây là phối của một kháng sinh đã có từ lâu (ceftazidim) với một chất ức chế betalactamase mới (avibactam) Hoạt chất avibactam này giúp ceftazidim điều trị được các nhiễm khuẩn sinh beta-lactamase.

Đặc điểm hóa học của avibactam rất độc đáo vì thế phồ tác dụng của thuốc rộng, trong đó có một số chủng G(-) đa kháng thuốc như Pseudomonas aeruginosa. Avycaz được cấp phép điều trị NTOBBC (phối hợp với metronidazol), NTNBCs phức tạp, và viêm bể thận.

Chế độ liều của ceftazidim/avibactam đó là liều 2.5 g/0.5 g đường tĩnh mạch trong mỗi 8 giờ.

Hiệu quả lâm sàng điều trị NTOBBC của ceftazidim/avibactam phối hợp metronidazol cao hơn meropenem. Tỉ lệ đáp ứng là 93,4%, so với meropenem là 92.1%.7 Hiệu quả điều trị NTNBCs và viêm bể thận của Avycaz tương đương imipenem-cilastin. Tỉ lệ đáp ứng với các chủng vi khuản đường tiết niệu kháng ceftazidim là 71,4% và không kháng ceftazidim là 85,7% , so với tỉ lệ đáp ứng tổng thể với imipenam-clilastin là 70,4%.8 Lợi ích này giúp làm giảm việc phải sử dụng kháng sinh carbapenem, tối thiểu hóa phơi nhiễm của vi khuẩn với nhóm kháng sinh phổ rộng nhất hiện nay, giảm phát sinh đề kháng. Ở thời điểm mà các chủng đề kháng carbapenem càng ngày càng tăng này, Avycaz thực sự đáng để cân nhắc trên lâm sàng. Tương tự như vậy, avibactam có khả năng chống lại các vi khuẩn đã kháng carbapenem.

Nôn, buồn nôn, táo bón và lo âu là những tác dụng phụ phổ biến thường gặp liên quan tới ceftazidim/avibactam. Ở các bệnh nhân có chức năng thận suy giảm, co giật và nhiễm độc thần kinh có thể xảy ra. Do đó, khi bệnh nhân có suy giảm chức năng thận và/hoặc tiền sử co giật nên lựa chọn kháng sinh khác.

Obiltoxaximab (Anthim)

Obiltoxaximab được cấp phép vào 18/03/2016 với chỉ định dự phòng bệnh than đường hô hấp. Bào tử Bacillus anthracis xâm nhập vào đường hô hấp, có thể dẫn đến nhiễm trùng gây tử vong.

Obiltoxaximab có thẻ gây ra sốc phản vệ. Tuy nhiên, sốc phản vệ liên quan obiltoxaximab có thể được phòng ngừa trước bằng diphenhydramine. Chế độ liều khuyến cáo với người lớn < 40 kg là 24 mg/kg, IV còn với người lớn có cân nặng > 40 kg liều là 16 mg/kg. Thời gian truyền tổi thiểu là 90 phút và các nhân viên y tế cân theo dõi chặt chẽ bệnh nhân về sốc phản vệ sau khi dùng thuốc.

Nghiên cứu trên người với obiltoxaximab chưa được tiến hành, nhưng các nghiên cứu trên động vật cho thất nhóm dùng obiltoxaximab có thời gian sống dài hơn nhóm sử dụng giả dược. Thử nghiệm an toàn chỉ ra nguy cơ bị sốc phản vệ lớn hơn lợi ích của điều trị bệnh than. Một số tác dụng bất lợi khác là nhức đầu, ngứa, nhiễm trùng đường hô hấp trên, ho, nghẹt mũi, nổi mề đay, và bầm tím, sưng, đau tại chỗ tiêm truyền.

Obiltoxaximab có thể là một thay thế cho các fluoroquinolon và doxycycline khi không sẵn có kháng sinh hoặc các thuốc này không phải lựa chọn hợp lý.

Isavuconazonium sulfate (Cresemba)

Isavuconazonium sulfat là một thuốc kháng nấm đã được phê duyệt vào 06 tháng 3 năm 2015. Điều đặc biệt là đây là thuốc “orphan drug designation”, hay là các thuốc “mồ côi”, hay là các thuốc điều trị các bệnh hiếm. Chỉ định của ssavuconazonium sulfat là điều trị Aspergillosis xâm lấn và Mucormycosis xâm lấn. Đây là những nhiễm trùng hiếm xảy ra nhưng lại rất thường xuyên trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

Isavuconazonium có mặt trên thị trường với cả dạng uống và dạng dùng qua đường tĩnh mạch. Liều là 372 mg mỗi 8 giờ trong 6 liều đầu, sau đó là liều 372mg mỗi 24 giờ. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy hiệu quả của isavuconazonium sulfat tương đương với voriconazole

Trong nghiên cứu pha 3, isavuconazonium sulfat được chứng minh là không thua kém voriconazole với vai trò là một thuốc chống nấm phổ rộng. Thử nghiệm cho thấy tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân của isavuconazol sau 42 ngày nghiên cứu là 19%, so sánh với voriconazole là 20%.

Tedizolid phosphate (Sivextro)

Tedizolid phosphate được cấp phép vào 20/6/2014, để điều trị SSTIs và các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn nhạy cảm, chủng MRSA, MSSA, các chủng Streptococcus, và Enterococcus. Thuốc dùng theo đường uống hoặc đường tĩnh mạch, liều 600mg hàng ngày trong 6 ngày. Đây là một ưu thế hơn so với linezolid vì linezolid sử dụng liều 2 lần 1 ngày trong vòng 10 – 14 ngày. Nếu quên 1 liều, và thời điểm nhớ ra cách thời điểm liều tiếp theo hơn 8 giờ thì có thể uống ngay khi nhớ ra để bù liều.

Tác dụng khong mong muốn có thể xảy ra đó là buồn nôn, đau đầu, tiêu chảy, nôn, và chóng mặt. Mặc dù tedizolid có tác dụng in vitro ức chế monoamine oxidase, nhưng ít có khả năng tedizolid có thể gây hội chứng serotonin ở liều điều trị. Đây cũng là một lợi điểm so với linezolid.

HIệu quả trị Staphylococcus aureus và MRSA của tedizolid tương tự như linezolid trong điều trị. Sự khác biệt là khoảng 0,1%. Tedizolid cũng có thể có hiệu quả điều trị các chủng VRE và các vi khuẩn kháng linezolid. Đây là các chủng phân lập được ngày càng phổ biến ở Hoa Kì.

Các chế phẩm dùng tại chỗ

Efinaconazole (Jublia) 10% gel

Efinaconazole là thuốc kháng nấm được cấp phép vào 6/6/2014 để điều trị nhiễm nấm móng chân. Cách sử dụng đó là bôi lên móng chân, bao gồm cả đầu móng chân, mỗi ngày một lần trong 48 tuần.8 Khi so sánh với itraconazole đường uống, efinaconazole cho hiệu quả tương tự và tỉ lệ khỏi bệnh cao gấp 3 đến 4 lần so với ciclopirox – một chất chỉ định cho điều trị nhiễm nấm móng chân. 10 Tác dụng bất lợi ghi nhận được ở một số ít bệnh nhân, bao gồm móng chân không phát triển, ngứa da, viêm, đỏ rát, và đau (1%-2% bệnh nhân).9-11

Kết quả thử nghiệm thành công efinaconazole có hiệu quả trong điều trị richophyto rubrum hoặc trichopyton mentagrophytes. Trong 52 tuần điều trị, 39.2% bệnh nhân được chữa khỏi hoặc hầu như khỏi với thuốc, trong khi chỉ 10.2% bệnh nhân được chữa khỏi hoặc hầu như khỏi mà không dùng efinaconazole.10

Tavaborole (Kerydin)12

Tavaborole là chống nấm oxaborole đầu tiên được cấp phép vào 6/6/2016, để điều trị nhiễm nấm móng chân do richophyto rubrum hoặc trichopyton mentagrophytes. Thông qua cơ chế ức chế enzym tRNA synthetase (AARS), tavaborole làm ngừng tổng hợp protein của nấm. Cách sử dụng cũng tương tự như efinaconazole đó là dùng tại chỗ hàng ngày, bôi lên vùng móng chân nhiễm nấm trong 48 tuần.

Trong thử nghiệm lâm sàng, bệnh nhân sử dụng tavaborole có tỉ lệ khỏi bệnh là 31.1% và 35.9% so với 7.2% và 12.2% ở nhóm bệnh nhân dùng giả dược. Tavaborole dường như là một lựa chọ thay thế tốt khi thất bại điều trị với các thuốc kháng nấm khác.

Khi sử dụng tavaborole, bệnh nhân có thể gặp tình trạng chẻ móng, móng không phát triển, chứng đỏ da, viêm da, nhưng những tác dụng này chỉ gặp ở 1% bệnh nhân.

1.2% clindamycin/3.75% benzoyl peroxide (Onexton)

Clindamycin/benzoyl peroxide dùng tại chỗ được cấp phép vào ngày 25/11/2014, để điều trị mụn giun chỉ. Thuốc được chỉ định dùng tại chỗ một lần, hàng ngày ở bệnh nhân trên 12 tuổi. Đây là chế phẩm phối hợp clindamycin/benzoyl peroxide. Hai hoạt chất này đều có hiệu quả diều trị nấm.

Tác dụng bất lợi chỉ được ghi nhận ở 1% bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng, bao gồm cảm giác bỏng rát, viêm da tiếp xúc, ngứa, và ban đỏ nơi quan sát. Cũng cần lưu ý là dù các tác dụng phụ có xảy ra nhưng không có bệnh nhân nào ngừng nghiên cứu do tác dụng phụ cả.

Thuốc nhỏ tai

Ciprofloxacin/fluocinolone (Otovel)

Thuốc phối hợp nhỏ tai fluoroquinolon/corticosteroid được cấp phép vào 29/4/2016, để điều trị viêm tai giữa liên quan tới S.aureus, Streptococcus pneumoniae, Haemophillus influenza, Moraxella catarrhalis, P.aeruginosa ở  bệnh nhân trưởng thành và trẻ em trên 6 tháng. Chế độ liều sử dụng đó là 2 lần 1 ngày, trong vòng 7 ngày.

Tác dụng bất lợi bao gồm tăng nhạy cảm, ù tai, tăng mô hạt quá mức, viêm tai, ngứa tai, rối loạn màng nhỉ, sưng nhĩ và rối loạn thăng bằng (>1%).

Finafloxacin (Xtoro)

Vào 17/12/2014, FDA đã cấp phép finafloxacin cho điều trị viêm tai ngoài cấp, hoặc tai của vận động viên bơi. Cách dùng thuốc là 4 giọt, 2 lần/ngày, trong 7 ngày.

Phổ của finafloxacin bao phủ cả P.aeruginosaS.aureus. Đây là các chủng phổ biến trong tai của các vận động viên bơi lội ở 70% bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng. Thuốc cũng có khả năng chống lại B.fragilis và vi khuẩn kị khí (tương đương moxifloxacin). Tác dụng phụ phổ biến đó là buồn nôn và ngứa

Các thuốc trị giun

Mebendazole (Emverm)

Mebendazole được cấp phép vào 15/1/2016 cho điều trị bao phủ các loại giun như Ancylostoma duodenale hoặc Necator americanus (giun móc), Ascariasis (giun tròn), Enterobiasis (giun kim), Strongyloidiasis (giun tròn), Trichuriasis (giun tóc), và Taeniasis (sán xơ mít).15 Liều thông thường là 100mg uống 2 lần mỗi ngày trong 3 ngày hoặc 100mg uống 1 liều duy nhất. Nếu điều trị ban đầu thất bại, điều trị có thể nhắc lại trong 3 tuần của lần điều trị đầu tiên.

Đây là thuốc khá độc đáo vì tỉ lệ khỏi khi điều trị giun kim là 95% so với các thuốc khác thấp hơn. Cần lưu ý cả kể dùng liều cao thuốc này cũng không điều trị khỏi hoàn toàn đươcj bệnh nang sán. Sử dụng liều cao hơn liều khuyến cáo kéo dài có thể dẫn đến giảm bạch cầu và mất bạch cầu hạt. Do đó, cần sử dụng chính xác liều được khuyến cáo, đặc biệt ở bệnh nhân có tiền sử nguy cơ cao giảm bạch cầu.15

Các vaccine

Bexsero

Vaccine này phòng ngừa não mô cầu do Neisseria meningitidis huyết thanh nhóm B. FDA cấp phép sử dụng Bexsero cho đối tượng từ 10 – 25 tuổi vào 23/1/2015. Hai liều được sử dụng cách nhau 1 tháng.

Nghiên cứu liên quan Bexsero chỉ ra 62% tới 88% bệnh nhân được tiêm vaccine có kháng thể kháng 3 chủng Neisseria menigitidis huyết thanh nhóm B so với trước khi tỉ lệ bệnh nhân có kháng thể trước khi tiêm là 0 – 23%.

Trumenba

Trumenba cũng là vacxin cho bệnh não mô cầu do Neisseria meningitidis huyết thanh nhóm B. Tuy nhiên, vacxin này khác với Bexsero ở chỗ nó có thể dùng với khoảng liều 2, 3 liều. 

Các nghiên cứu chỉ ra nằng 82% bệnh nhân sau tiêm vaccine có kháng thể với 4 chủng Neisseria menigitidis so với <1% trước khi tiêm vaccine.

Không nên trộn lẫn vacxin với nhau. Bệnh nhân nên được tư vấn trước rằng họ có thể gặp phải các phản ứng bất lợi như kích ứng tại vị trí tiêm, mệt mỏi, đau đầu, đau cơ, đau khớp, ớn lạnh, tiêu chảy, hoặc buồn nôn. Cần chú ý nếu bệnh nhân có thở gấp, chóng mặt nghiêm trọng, hoặc ngất xỉu.

Thuốc đang trong giai đoạn nghiên cứu phát triển

Teixobactin

Mặc dù vẫn trong nghiên cứu tiền lâm sàng, teixibactin có thể mở màn cho một kỉ nguyên mới trong cuộc chiến đấu với các chủng vi khuẩn, với cơ chế ức chế tổng hợp peptidoglycan. Cụ thể, thuốc liên kết vùng biết như vị trí undecaprenyl – PP – đường của lipid II và lipid III. Vị trí này không bị biến đổi bởi cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn. Teixobactin có hiệu lực với nhiều vi khuẩn G(+), bao gồm MRSA và VRE.16

Teixobactin được phát hiện nhờ sử dụng một thiết bị IChip để tìm kiếm cho các vi sinh vật sản xuất kháng sinh tự nhiên trong đất mà diệt được S.aureus. IChip giúp khám phá ra những hóa chất chưa hề được biết đến, từ đó có thể dẫn tới khám phá được nhiều nhiều kháng sinh và các nhóm thuốc khác nữa trong tương lai.16,17

KẾT LUẬN

Chống lại vấn đề kháng kháng sinh có vai trò quan trọng trong điều trị và phòng ngừa bênh tật. Các thuốc trước đây vẫn nên là các lựa chọn ưu tiên, nếu có thể và nên giữ các kháng sinh mói hơn để trị các chủng đề kháng. Tóm lại,các thuốc mới phê duyệt này lại cho chúng ta thêm hi vọng rằng, kỉ nguyên hậu kháng sinh không phải là kỉ nguyên của sự thiếu thuốc, mà sẽ là kỉ nguyên để khám phá và tìm ra được nhiều kháng sinh mới, tạo ra những bước đột phá trong cuộc chiến đấu với các nhiễm trùng do vi khuẩn.


Nguồn: Marilyn Bulloch (2016). Latest Advancements in Antimicrobial Therapy. PharmacyTimes. [Link]

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.